Làng Chuông âm thầm giữ hồn nón Việt

Làng Chuông âm thầm giữ hồn nón Việt

Chiếc nón lá từ bao đời nay đã gần gũi, quen thuộc đối với người phụ nữ Việt Nam, chẳng hề phân biệt giàu – nghèo, hèn – sang, từ người nông dân đến các thiếu nữ nơi đô thị.

Làm nón quai thao tại làng Chuông.

Trải qua thời gian và đổi thay của đời sống, nhưng những chiếc nón vẫn theo các bà, các mẹ, các chị hằng ngày không chỉ che mưa, che nắng mà còn tạo nên cái “duyên” rất đặc sắc, trở thành nét văn hóa của dân tộc Việt, làm ngỡ ngàng bao du khách nước ngoài. Bởi những lý do đó mà có một ngôi làng ngày đêm vẫn đang âm thầm gìn giữ hồn của nón Việt. Ðó là làng Chuông.

Nghề cổ…

Theo quốc lộ 21B, chúng tôi tìm về làng Chuông (còn gọi là làng Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội), ngôi làng nổi tiếng với nghề làm nón có từ hàng trăm năm. Tuy không nhộn nhịp như các làng nghề khác, nhưng cũng vẫn dễ nhận ra cái dáng dấp của một ngôi làng với nghề cổ. Phiên chợ Chuông bên triền đê sông Ðáy náo nhiệt, tấp nập, kẻ mua người bán những vật liệu làm nón, như lá cọ, vành nón, chỉ khâu,… đến những chồng nón trắng nõn nà. Ngay cả dọc hai bên đường, cũng bắt gặp những chiếc nón trắng phơi mình dưới ánh nắng sớm làm không khí thật xôn xao.

Hỏi chuyện nghề làm nón, dường như trong làng Chuông ai cũng biết, nhưng khi hỏi nghề làm nón ở đây có từ bao giờ thì lại ít ai rõ. Theo các cụ bô lão: Từ lâu lắm cả vùng Bắc Bộ ai cũng biết tới câu ca lưu truyền trong dân gian kể về làng nghề làm nón cổ: “Muốn ăn cơm trắng cá trê/ Muốn đội nón đẹp thì về làng Chuông”.

Họ bảo nghề làm nón của làng Chuông ngày trước thịnh lắm, cả làng đều làm nón. Nón được sản xuất nhiều loại, dùng cho nhiều tầng lớp như nón ba tầm cho các cô gái; nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp cho các chàng trai và những người đàn ông sang trọng… Thế hệ nọ truyền thế hệ kia, nhưng chủ yếu là những người phụ nữ có bàn tay khéo léo và sự tỉ mỉ, cần cù, nhẫn nại.

Cũng theo các cụ trong làng thì thời hoàng kim của nghề làm nón là vào ba thập niên đầu thế kỷ 20. Nghe kể khi ấy, những chiếc nón lá do các nghệ nhân làng Chuông làm ra còn được chọn làm quà biếu cho các hoàng hậu, công chúa trong cung. Tiếc thay, do có một thời gian nền kinh tế khủng hoảng, cả làng rơi vào tình trạng sa sút, người làng bỏ đi hết, cũng vì thế nên những kỹ thuật làm nón ấy đã bị thất truyền.

Hành trình đi tìm “hồn” cho nón làng Chuông

Trăn trở nuối tiếc nghề cổ, sau một thời gian mày mò để tìm cách khôi phục nghề làm nón của làng Chuông, ông Hai Cát – một nghệ nhân của làng đã quyết tâm ra chốn kinh kỳ tiếp tục theo nghiệp làm nón quê nhà. Lúc bấy giờ, nón Huế lên ngôi và được ưa chuộng ở chốn kinh thành. Với đôi bàn tay của người thạo nghề cùng với chút sáng tạo của tuổi trẻ, ông Hai Cát dốc toàn bộ vốn liếng mua nguyên liệu về làm nón Huế.

Năm 1930, ở hội chợ Trường Ðấu Xảo, Hà  Ðông, nón của ông Hai Cát đã được đánh giá rất cao và chính quyền sở tại đã cấp giấy hành nghề, hiệp hội làm nón chứng nhận chất lượng cao. Ông trở về quê hương với nghề làm nón mới cùng với sáu giấy phép dạy nghề làm nón xuyên suốt từ Hà Ðông, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng. Nhờ tài năng, danh tiếng của ông Hai Cát, sau một năm, số người quay về làng học nghề làm nón ngày một đông, làm hồi sinh lại nghề nón làng Chuông sau 30 năm tưởng sẽ không bao giờ làm nón nữa.

Ðến những bàn tay khéo léo tạo nên đặc sắc nón Chuông

Từ đó, nghề làm nón làng Chuông lại tiếp tục nổi tiếng không chỉ khắp trong nước mà vang xa ra tận nước ngoài. Ngôi làng nhỏ bé luôn tấp nập khách ra vào. Theo lời giới thiệu của cán bộ thôn, chúng tôi tìm đến những gia đình làm nón lành nghề của làng Chuông, được tận mắt chứng kiến công việc làm nón. Nhìn bàn tay thoăn thoắt luồn những đường chỉ gắn từng vòng để tạo nên chiếc nón mới thấy được cái nghề làm nón không chỉ đòi hỏi sự cần cù mà còn phải khéo léo như thế nào.

Các chị làng Chuông cho biết: Ðể tạo ra chiếc nón đẹp, người làm nón phải rất cẩn thận trong việc lựa chọn nguyên liệu. Lá được lấy từ Quảng Bình, Phú Thọ… về vò trong cát rồi phơi nắng đến khi mầu xanh của lá chuyển sang mầu trắng bạc, mỏng tang, nhưng phải bền, dai, phẳng mà không giòn, không rách. Trước khi đưa lá vào khuôn nón phải được là phẳng bằng cách miết trên chiếc lưỡi cày được hơ nóng. Công đoạn này đòi hỏi người thợ phải rất cẩn thận, căn sao cho nhiệt độ vừa phải để lá không bị cháy, hoặc bị sống vì không đủ độ nóng. Vòng nón làm bằng tre vót nhỏ, đều, tuyệt đối không được cong vênh.

Nón làng Chuông chỉ nhìn lướt qua cũng dễ dàng nhận ra ngay, vì chỉ có nón làng Chuông mới có 16 lớp vòng, giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại. Hơn thế người làng Chuông rất cẩn thận khi xếp từng lớp lá vào vòng nón, một lớp mo tre và một lớp lá nữa rồi mới khâu.

Chị Tạ Thị Hương, thợ làm nón lành nghề của làng Chuông được mệnh danh là “đại sứ nón làng” từng làm những chiếc nón khổ lớn có đường kính hơn 3 m để chào đón SEA Games 22 và Hội nghị APEC tâm sự: Cái nghề này nó tỉ mẩn lắm, làm nón mà sốt ruột thì không làm được. Nhất là khâu nón là công đoạn đòi hỏi phải cẩn thận, đôi bàn tay khéo léo lách từng mũi kim đường chỉ, sao cho mềm mại, thẳng đều từ trong ra ngoài, không cẩn thận sẽ rách ngay. Nón khâu xong phải hơ qua lưu huỳnh và phết một lớp dầu thông mỏng để nón không bị mốc trong thời tiết ẩm hay mưa.

Và những trăn trở để bảo tồn nón Việt

Làm được những chiếc nón đẹp đã khó, việc lo tiêu thụ sản phẩm càng khó hơn. Nhất là khi ngày nay, nhu cầu sử dụng nón không còn nhiều như trước, giá thành của mỗi chiếc nón cũng quá rẻ. Chị Hà, thợ làm nón lành nghề của làng Chuông cho biết: Bây giờ, người chọn nón để đội không còn nhiều. Vì thế, một chiếc nón vài năm trước bán được từ 70 nghìn đến 80 nghìn đồng thì giờ chỉ còn 50 nghìn đồng thậm chí là ít hơn. Do vậy, số người làm nón không nhiều như trước nữa, phần lớn người dân đã chuyển sang làm nghề khác. Chị Hà tâm sự: Cũng vì thu nhập chẳng đáng bao nhiêu, nên nhiều lúc cũng muốn bỏ nghề để kiếm việc khác có thu nhập cao hơn lắm. Nhưng cứ nghĩ đến việc các cụ tổ tiên phải bôn ba, vất vả mới gây dựng được, nên đành cố giữ lấy nghề, dẫu nó không giàu, nhưng cũng thêm thắt chút ít vào thu nhập cho gia đình. Hơn nữa, nếu bỏ nghề thì con cháu sẽ làm sao tiếp nối được nghề truyền thống của tổ tiên?

Câu nói của chị Hà khiến tôi thật sự lưu luyến với mảnh đất này. Trên đường về tôi cứ miên man nghĩ: Thật may mà có các bà, các chị làng Chuông vì yêu nghề và muốn níu giữ cái hồn quê nên vẫn đang ngày ngày cần mẫn, tỉ mỉ làm nên những chiếc nón trong guồng quay của thời gian để đưa hình ảnh chiếc nón Việt vươn xa hơn nữa.

Theo: nhandan